Kinh nghiệm phi hình sự hóa mại dâm của New Zealand Ngày đăng: 22/09/2016
Ngày 22⁄9⁄2016, tại Hà Nội, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TBXH) phối hợp với Quỹ Dân số Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNFPA) tổ chức Hội thảo “Chia sẻ kinh nghiệm về phi hình sự hóa mại dâm của New Zealand”. Chủ trì Hội thảo có ông Nguyễn Trọng Đàm, Thứ trưởng Bộ LĐ-TBXH; ông Đặng Thuần Phong, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội; bà Astrid Bant, Trưởng Đại diện Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam; ông Nguyễn Xuân Lập, Cục trưởng Cục PCTNXH. Tham dự Hội thảo còn có các đồng chí Ủy viên Thường trực của Ủy ban Các vấn đề xã hội, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng, Ủy ban Pháp luật, đại diện các Bộ, ngành, các Tổ chức Quốc tế, Tổ chức Phi chính phủ có liên quan, đại diện các tỉnh, thành phố và cơ quan báo chí ở Trung ương và Hà Nội.

Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Trọng Đàm cho biết, mại dâm là một vấn đề xã hội khó giải quyết không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết mọi quốc gia trên thế giới. Việc xây dựng chính sách, pháp luật hiện nay, đòi hỏi phải trên cơ sở nhận thức về lý luận và phương pháp tiếp cận mới, đặc biệt là vấn đề đảm bảo quyền, bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã hội của các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội. Định hướng nghiên cứu, xây dựng chính sách pháp luật về mại dâm cũng đặt các vấn đề ưu tiên: tăng cường phòng ngừa; xây dựng khung pháp lý cho việc thực hiện các biện pháp can thiệp giảm hại trong phòng, chống mại dâm; phòng chống bạo lực trên cơ sở giới đối với nhóm người bán dâm. Đồng thời, xây dựng hệ thống dịch vụ xã hội phù hợp, thân thiện, tạo điều kiện cho người bán dâm dễ dàng tiếp cận, sử dụng khi họ có nhu cầu thay đổi công việc, thay đổi cuộc sống.

Hiện nay, Bộ LĐ-TBXH được Chính phủ giao nghiên cứu, xây dựng dự án Luật Phòng, chống mại dâm. Hội thảo là cơ hội cho Bộ LĐ-TBXH học hỏi những kinh nghiệm về lập pháp của New Zeland về vấn đề mại dâm, từ đó tham mưu tốt hơn cho Chính phủ trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện chính sách, pháp luật, đồng thời lắng nghe những ý kiến đóng góp của các tổ chức, đơn vị liên quan trong việc xây dựng Dự án Luật Phòng, chống mại dâm.

Theo ông Nguyễn Xuân Lập, Cục trưởng Cục PCTNXH cho biết: khuôn khổ pháp lý về vấn đề mại dâm của nước ta hiện nay đã bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn; những quy định hiện hành không đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; thiếu cơ sở pháp lý cho việc triển khai các giải pháp, biện pháp, phương pháp tiếp cận mới trong công tác phòng, chống mại dâm; chưa cụ thể về điều kiện để đảm bảo thực hiện các biện pháp phòng ngừa mại dâm…

Ông Nguyễn Xuân Lập cho hay, việc xây dựng Luật Phòng, chống mại dâm đang được tiến hành dựa trên quan điểm, đó là: Thể chế hoá quan điểm mại dâm là bất hợp pháp ở Việt Nam, tuy nhiên, việc xây dựng chính sách, pháp luật về phòng, chống mại dâm phải đảm bảo tôn trọng quyền con người, chú trọng các giải pháp mang tính xã hội, nhằm giảm tác hại do hoạt động mại dâm gây ra đối với chính người mại dâm và xã hội, góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nước. Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia đấu tranh phòng, chống ma túy và hỗ trợ, giúp đỡ hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm; đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống mại dâm hiện nay cũng như những năm tiếp theo. Việc xây dựng Luật phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết, khảo sát thực trạng công tác đấu tranh phòng, chống mại dâm trong những năm qua và tham khảo có chọn lực kinh nghiệm lập pháp về lĩnh vực này của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Tại Hội thảo, các chuyên gia đến từ NewZealand đã chia sẻ những kinh nghiệm về quá trình xây dựng và thẩm định Luật cải cách liên quan đến mại dâm 2003 (PRA); kinh nghiệm của ngành Y tế, của Cảnh sát về thực hiện PRA; về các hoạt động xã hội và vai trò của các tổ chức của người hành nghề mại dâm trong việc xây dựng PRA, từ đó đưa ra những khuyến nghị nghiên cứu áp dụng vào việc xây dựng và thẩm định Luật về mại dâm ở Việt Nam.

Chia sẻ tại Hội thảo, bà Jan Logie, Đại biểu Quốc hội, Đảng Xanh New Zealand cho biết, tại New Zealand trước năm 2003 (trước khi có Luật về phi hình sự hóa mại dâm), các hành vi liên quan đến mại dâm như quảng cáo bán dâm, chứa mại dâm, bán dâm hay bất cứ hoạt động nào có thu nhập từ mại dâm đều là bất hợp pháp nên hoạt động mại dâm tại New Zealand diễn ra chủ yếu trá hình dưới nhiều hình thức tinh vi, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm. Tình trạng bất hợp pháp của hoạt động mại dâm đã tạo ra điều kiện cho chủ chứa, dẫn dắt, môi giới và khách mua dâm gây ra những tổn thương đối với người bán dâm như bị ép buộc, bị bóc lột. Tình trạng này có chiều hướng phức tạp, khó kiểm soát do người bán dâm không dám khai báo và tố giác tội phạm với các cơ quan chức năng. Đặc biệt, tỉ lệ lây nhiễm cao các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS trong nhóm người bán dâm do thiếu kỹ năng và khả năng đàm phán về hành vi tình dục an toàn với khách mua dâm, thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, không dám nói về tình trạng sức khỏe của bản thân, sợ tiếp cận với các cơ sở chăm sóc y tế… Đây cũng nguyên nhân làm cho người bán dâm không chỉ là nạn nhân mà còn là tác nhân gây lây lan các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS ra cộng đồng.

 Một số nội dung của Luật về mại dâm được sửa đổi năm 2003

Tại New Zealand, theo quy định của Luật về mại dâm được sửa đổi năm 2003, mọi hình thức trừng phạt, xử lý hình sự và hành chính với hoạt động mại dâm đều bị xóa bỏ. Hoạt động mại dâm được Chính phủ thừa nhận như một loại hình công việc hợp pháp và đi cùng với các quy định về bảo vệ sức khỏe và an toàn lao động; các cơ sở mại dâm, người bán dâm và người mua dâm buộc phải chấp nhận các quy định về an toàn tình dục. Bộ Y tế chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định này thay vì cơ quan bảo vệ pháp luật.

Mục đích của việc phi hình sự hoá mại dâm (nhưng không ủng hộ về mặt đạo đức đối với hoạt động này) nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc: Bảo đảm các quyền của người bán dâm và bảo vệ họ khỏi bị bóc lột; Tăng cường sức khỏe và an toàn của người bán dâm; Có lợi cho sức khỏe cộng đồng; Cấm sử dụng người bán dâm người dưới 18 tuổi và nghiêm cấm những người không phải là công dân hoặc không phải là cư dân định cư lâu dài tại New Zealand tham gia vào công nghiệp tình dục.

Quá trình thông qua Luật năm 2003 và kết quả thực hiện

Dự thảo Luật về mại dâm đã mất hai năm rưỡi để được đưa vào chương trình xem xét thẩm định. Mặc dù Dự thảo Luật đã gây tranh cãi lớn trong quá trình thông qua Quốc hội, cuối cùng đã được thông qua và chính thức có hiệu lực vào ngày 28 tháng 6 năm 2003 với 59% ý kiến ủng hộ.

Trong quá trình xem xét thẩm định phê duyệt, nhiều người trong Chính phủ New Zealand đã đặt ra vấn đề sẽ có sự bất ổn trong xã hội, sự xuống cấp về đạo đức, làm tăng số người tham gia hoạt động mại dâm, tăng nguy cơ lây lan HIV/AIDS ra cộng đồng khi Luật này được triển khai. Vì vậy, năm 2004, Ủy ban rà soát Luật (bao gồm đại diện của Hiệp hội Hỗ trợ người bán dâm, Tổ chức Thanh niên, Nhà thờ, đại diện một số nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Luật) được thành lập để xem xét, đánh giá Luật sau 05 năm thi hành.

Đánh giá sau 13 năm triển khai Luật về phi hình sự hóa mại dâm của Ủy ban rà soát Luật New Zealand cho kết quả:

Không có ghi nhận nào về sự phát triển của ngành công nghiệp tình dục hay bất cứ sự gia tăng về số lượng người bán dâm sau khi triển khai Luật; đã có những ảnh hưởng tích cực của Luật đối với việc bảo vệ quyền của những người dưới 18 tuổi liên quan đến hoạt động mại dâm; quyền bảo vệ những người trưởng thành không bị ép buộc tham gia mại dâm; bao gồm cả quyền được từ chối khách hàng hay hoạt động tình dục và quyền không bị trở thành đối tượng của việc bóc lột, xâm hại, hay buộc phải làm việc trong điều kiện tồi tệ; người bán dâm bị bạo hành có quyền (công dân/quyền con người) để khiếu nại trước tòa; đã giúp cải thiện điều kiện làm việc an toàn và giảm bạo lực đối với người bán dâm thông qua việc tăng cường khả năng thương thuyết với khách hàng để có hoạt động tình dục an toàn. Nhiều người bán dâm đã tự tin báo cáo với cơ quan chức năng khi bị bạo lực, bóc lột.

Vấn đề sức khỏe, an toàn của người bán dâm: việc thay đổi theo hướng thiết lập tốt mối quan hệ giữa người bán dâm với lực lượng cảnh sát cũng có nghĩa là người bán dâm có thể tiếp cận được với việc bảo vệ của cảnh sát và tăng khả năng thông báo tình trạng bị bạo lực của họ với cảnh sát; ngoài ra, người bán dâm cũng dễ dàng tiếp cận với các cơ sở y tế để được tư vấn, khám, chữa bệnh mà không bị mặc cảm và không phải che giấu như trước nữa. Vì vậy, người bán dâm ngày càng có ý thức cao về việc bảo vệ sức khỏe của bản thân và cộng đồng trong khi hành nghề; người bán dâm có thể tự chủ, kiểm soát hoạt động bán dâm của mình, không phụ thuộc vào người khác, vì vậy người bán dâm không nhất thiết làm việc trên đường phố mà có thể làm việc trong các “nhà thổ” hoặc có thể làm việc tại nhà.

 Vấn đề giới trẻ tham gia vào mại dâm: Tại New Zealand, việc quy định về cấm sắp xếp hoặc tiếp nhận dịch vụ tình dục từ một người dưới 18 tuổi đã giúp không làm tăng số người trẻ tuổi tham gia mại dâm.

Tuy nhiên còn một số tồn tại, hạn chế khi thực hiện: So với Luật của một số nước phát triển khác, vấn đề phân biệt đối xử đối với những đối tượng tác động của Luật không được đề cập nhiều; có một số bất cập liên quan giữa Luật phi hình sự hóa mại dâm và Luật Nhập cư (không cho người nhập cư tham gia hoạt động mại dâm); có một số mâu thuẫn với Luật Tiêu dùng (về quyền lợi của người mua dịch vụ tình dục mâu thuẫn với quy định về việc người bán dâm có quyền từ chối cung cấp dịch vụ tình dục vào bất cứ thời điểm nào của hợp đồng cung cấp dịch vụ).

Từ những thông tin được chia sẻ của các chuyên gia New Zealand, các đại biểu đã thảo luận về quan điểm, giải pháp, biện pháp và các chính sách cần có để nâng cao hiệu quả trong công tác phòng, chống mại dâm của Việt Nam trong giai đoạn tới, đặc biệt là định hướng xây dựng dự án Luật Phòng, chống mại dâm hiện nay.

Phát biểu kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Trọng Đàm đề nghị trong thời gian tới Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về công tác này; Cục cần đưa ra kế hoạch cụ thể, tổ chức các hội thảo, hội nghị, diễn đàn về phòng, chống mại dâm; xây dựng Dự thảo Luật phòng, chống mại dâm với những mục tiêu đổi mới,  tiếp tục phối hợp với UNFPA tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm hay; kinh nghiệm về phi hình sự hóa mại dâm của New Zealand rất rộng, vì vậy cần phân tích, lựa chọn, ưu tiên những mặt tích cực có thể thí điểm ở Việt Nam và mong rằng, tổ chức UNFPA cũng như các tổ chức quốc tế khác tiếp tục đồng hành cùng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội trong công tác này./.

TM