Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga thay mặt UBTVQH trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi. Theo đó, Dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp này gồm 8 chương và 65 điều (giảm 01 điều so với dự thảo Luật trình Quốc hội, trong đó bỏ các điều 34, 56, 58, 59; bổ sung các điều 21, 40 và 64; sửa đổi 63 điều, giữ nguyên 02 điều).
Tại phiên thảo luận, các đại biểu cơ bản thống nhất với nội dung Báo cáo giải trình, tiếp thu của UBTVQH về dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi). Các ý kiến đánh giá cao về việc dự thảo Luật đã bổ sung khoản 2 Điều 3 các hành vi nghiêm cấm “thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai” và đồng tình với nhiều nội dung mà dự thảo Luật trình tại Kỳ họp này. Tuy nhiên, các ý kiến đề nghị dự thảo Luật cần quy định cụ thể các điều, khoản để đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ, khả thi.
Về hỗ trợ tâm lý (Điều 41), đại biểu Thạch Phước Bình (Trà Vinh) cho biết, việc hỗ trợ tâm lý là một trong những khía cạnh quan trọng trong việc giúp nạn nhân vượt qua các sang chấn tâm lý do bị buôn bán. Tuy nhiên, thời gian hỗ trợ tâm lý được quy định là không quá 3 tháng có thể chưa đủ đối với những trường hợp nạn nhân bị tổn thương nặng nề về tinh thần. Do đó, thời gian hỗ trợ tâm lý cần được linh hoạt và kéo dài dựa trên tình trạng thực tế của từng nạn nhân.
Đại biểu Bình đề nghị cần bổ sung thêm các chương trình đào tạo kỹ năng mềm và tư vấn nghề nghiệp chuyên sâu hơn, để đảm bảo rằng nạn nhân có thể hòa nhập tốt với môi trường làm việc mới, giúp họ tự lập về tài chính và ổn định cuộc sống. Đồng thời đề nghị cần có quy định chi tiết hơn về mức trợ cấp và các điều kiện cụ thể để đảm bảo rằng việc hỗ trợ được thực hiện công bằng, minh bạch và đến đúng đối tượng.
Về hỗ trợ phiên dịch cho nạn nhân, đặc biệt là những nạn nhân không biết hoặc không hiểu tiếng Việt là một quy định rất cần thiết. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho nạn nhân, đại biểu đề nghị cần có cơ chế giám sát chất lượng dịch thuật, đảm bảo rằng việc phiên dịch được thực hiện chính xác và khách quan.
Đồng tình với ý kiến nêu trên, đại biểu Nguyễn Minh Tâm (Quảng Bình) cho rằng, cần xác định rõ nhân lực, trình độ của người phiên dịch để hỗ trợ phiên dịch cho nạn nhân. Để đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ và tính khả thi, đại biểu Tâm đề nghị bổ sung cụm từ “và người dưới 18 tuổi đi cùng” vào sau cụm từ “nạn nhân” và sửa lại khoản này như sau: “Nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng không biết, không hiểu tiếng Việt được hỗ trợ chi phí phiên dịch trong thời gian lưu trú tại Cơ sở trợ giúp xã hội hoặc Cơ sở hỗ trợ nạn nhân”.
Tại khoản 3 Điều 31, đại biểu Nguyễn Minh Tâm đề nghị thay cụm từ “Cơ quan chuyên môn về Ngoại vụ cấp tỉnh” bằng cụm từ “Sở Ngoại vụ hoặc Phòng Ngoại vụ thuộc Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” để dễ dàng xác định được đúng địa chỉ, dễ hiểu, dễ tiếp cận, hơn nữa phù hợp với quy định của Chính phủ về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Đồng thời, đề nghị bổ sung cụm từ “Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” sau cụm từ “Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an cấp tỉnh”. Đại biểu Nguyễn Minh Tâm cho biết, việc bổ sung cụm tử này là để phù hợp với Điều 14 Luật Biên phòng Việt Nam quy định: Bộ đội Biên phòng có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) đề nghị tại khoản 2 Điều 22 của dự thảo Luật cần bổ sung cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền khi phát hiện vi phạm để xử lý có hiệu quả, đặc biệt là trong những trường hợp hành vi vi phạm có tính chất phức tạp hoặc liên quan đến nhiều địa phương hoặc nhiều cơ quan nhằm xử lý một cách đồng bộ.
Về giải cứu, tiếp nhận, xác minh nạn nhân đang ở nước ngoài quy định tại khoản 3 Điều 29 của dự thảo Luật có nhiều quy định bất cập, đây là trường hợp nạn nhân đang ở nước ngoài được cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tiếp nhận, do đó việc xác minh và các bước tiếp theo sẽ được thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 29.
Trong trường hợp chưa đủ căn cứ cấp một giấy tờ, các tài liệu theo quy định tại khoản 1 Điều 33 của luật này như quy định tại khoản 3 Điều 29 thì giải pháp tiếp theo là làm các thủ tục để đưa các nạn nhân này về nước, không nhất thiết cần đề nghị và chờ các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác minh theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 27 của luật này.
Do đó, khoản 3 Điều 29 sửa lại thành: “Trường hợp chưa đủ căn cứ cấp một trong các giấy tờ, tài liệu theo quy định tại khoản 1 Điều 33 của luật này thì cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thực hiện các biện pháp bảo hộ công dân theo quy định của pháp luật và phối hợp để đưa các nạn nhân này về nước để các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác minh theo quy định tại Điều 30 của luật này”.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga, những năm qua, tình trạng mua bán bào thai nhằm mục đích mua bán trẻ em sau khi được sinh ra đang là thực tế đáng lo ngại. Việc thỏa thuận mua bán này thực chất là tiền đề của hành vi mua bán người, tức mua bán người từ giai đoạn còn đang là bào thai lại chưa được pháp luật điều chỉnh.
Do vậy, trước yêu cầu nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng chống mua bán người từ sớm, từ xa; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm liên quan đến phụ nữ, trẻ em, tiếp thu ý kiến ĐBQH, khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật đã quy định hành vi nghiêm cấm "thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai"./.
Như Ngọc