Hạn chế của chế tài xử lý hình sự liên quan đến công tác phòng, chống mại dâm
Qua nghiên cứu quy định tại các điều 254, 255 và 256 của Bộ luật hình sự, Nghị quyết số 02/2003/NQ- HĐTP ngày 17/4/2003 và Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó có quy định về các tội phạm liên quan đến mại dâm cũng như qua thực tiễn đấu tranh phòng chống mại dâm, xuất hiện một số vướng mắc, bất cập cần được phân tích, nghiên cứu để có những đề xuất, kiến nghị thích hợp về việc sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của pháp luật hình sự trong công tác đấu tranh phòng chống mại dâm, cụ thể như:
- Điều 255 Bộ luật hình sự về tội môi giới mại dâm.
Theo quy định tại Điều 255 thì hành vi khách quan của tội này là dụ dỗ hoặc dẫn dắt người mại dâm. Trên thực tế, việc môi giới mại dâm diển ra rất đa dạng, dưới nhiều hình thức khác nhau, bằng nhiều hành vi khác nhau. Nếu chỉ giới hạn ở hai hành vi dụ dỗ người mại dâm và dẫn dắt người mại dâm thì quá hẹp, không bao quát được hết các hành vi khác có liên quan đến việc làm trung gian, mỗi giới giữa nười mua dâm và người bán dâm, và do đó, không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm hiện nay.
- Điều 256 Bộ luật hình sự quy định về tội mua dâm người chưa thành niên
Điểm bất cập lớn nhất ở điều luật này chính là vấn đề chủ thể của tội phạm. Điều này thể hiện ở chỗ theo quy định tại khoản 3, Điều 8 và Điều 9 của Bộ luật hình sự thì tội mua dâm người chưa thành niên thuộc trường hợp quy định tại các khoản 2 và 3 của điều này là tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, vì vậy, theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự thì trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Điều đó sẽ nảy sinh một vấn đề trên thực tế là chúng ta xử lý về hình sự đối với cả những trường hợp các trẻ em có hành vi mua bán dâm với nhau (một vấn đề xã hội hết sức phức tạp và nhạy cảm).
- Nghị quyết số 02/2003/NQ- HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Điểm 1 mục II của Nghị quyết số 02/2003/NQ- HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự thì người chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội chứa mại dâm” nếu họ gọi gái mại dâm đến cho khách và để khách mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ… thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình. Như vậy, theo hướng dẫn này thì dường như hành vi “gọi gái mại dâm đến cho khách” được coi là hành vi “chứa mại dâm” chứ không phải là hành vi “dẫn dắt người mại dâm”. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc phân biệt tội chứa mại dâm và tội môi giới mại dâm.
- Một số hành vi vi phạm pháp luật về mại dâm chưa được quy định tại Bộ luật hình sự
Thực tế hiện nay, các hành vi mua dâm xảy ra tương đối phổ biến, mại dâm chỉ được thực hiện khi có sự hợp tác của cả người mua lẫn người bán dâm. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự chỉ hình sự hóa hành vi mua dâm người chưa thành viên, do vậy, muốn ngăn chặn tệ nạn mại dâm thì cần phải ngăn chặn cả “cung” lẫn “cầu”. Bên cạnh đó, trong hoạt động mua bán dâm, hiện có khoảng 20% phụ nữ bán dâm dang hoạt động có đường dây, tổ chức. Trong đường dây hoạt động mại dâm, có kẻ đứng ra tổ chức, chỉ huy, điều hành mạng lưới hoạt động mại dâm, thông qua hoạt động mại dâm trá hình để kiếm lời, có kẻ chỉ huy, phân công, điều hành từng khâu, từng công đoạn trong hoạt động mại dâm và cũng có những người trực tiếp thực hiện các công đoạn cụ thể trong các công đoạn đó, như: chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa diểm, sử dụng địa điểm không thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi tiến hành việc mua bán dâm); tìm kiếm, dẫn dắt người mua dâm, người bán dâm, bảo kê, bảo vệc cho hoạt động mại dâm… Đây là hoạt động hết sức nguy hiểm cho xã hội, gây khó khăn cho việc điều tra, phát hiện và xử lý mại dâm cần phải bị xử lý nghiêm bằng biện pháp hình sự.
- Thiếu vắng một số tình tiết tăng nặng định khung là mại dâm đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến mại dâm còn thấy thiếu một số tình tiết tăng nặng, cụ thể, thiếu tình tiết tăng nặng là “Lợi dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ để chứa chấp, môi giới hoặc tổ chức hoạt động mại dâm; tình tiết tăng nặng “mua bán dâm ở nơi công cộng”; tình tiết tăng nặng đối với tội dụ dỗ, ép buộc, chứa chấp, lôi kéo người chưa thành niên tham gia hoạt động mại dâm… để tăng cường công tác phòng, chống mại dâm trong tình hình hiện nay.
Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung chế tài xử lý hình sự liên quan đến phòng, chống mại dâm trong tình hình hiện nay.
Hoàn thiện chế tài hình sự
- Nghiên cứu hoàn thiện nội dung quy định tại Điều 255 Bộ luật hình sự về tội môi giới mại dâm theo hướng tội phạm này thể hiện ở mặt khách quan không chỉ là dụ dỗ hoặc dẫn dắt người mại dâm mà cần mở rộng đến nhiều hành vi khác như làm trung gian, môi giới giữa người mua dâm và người bán dâm vì trên thực tế, việc môi giới mại dâm diễn ra rất đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau, bằng nhiều hành vi khác nhau. Nếu chỉ giới hạn ở hai hành vi dụ dỗ người mại dâm và dẫn dắt người mại dâm thì quá hẹp, không bao quát được hết các hành vi khác có liên quan. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu bổ sung tình tiết tăng nặng định khung đối với tội môi giới mại dâm đối với người chưa thành niên dưới 13 tuổi.
- Nghiên cứu hoàn thiện về mặt chủ thể thực hiện hành vi vi phạm quy định tại Điều 256 Bộ luật hình sự quy định về tội mua dâm người chưa thành viên: hiện nay, theo quy định tại Điều 256 Bộ luật hình sự thì bất kỳ ai (từ đủ 14 hoặc 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự) mua dâm người chưa thành niên đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua dâm người chưa thành viên. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử chỉ xử lý người đã thành niên vì các cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng, nếu người mua dâm là người chưa thành niên thì bản thân họ cũng chưa phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý nên hành vi của họ chưa có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội và không cần phải xử lý họ về hình sự. Vì vậy, để thống nhất giữa quy định trong luật và thực tiễn áp dụng luật, Điều 256 cần quy định rõ chủ thể của tội phạm này phải là người đã thành niên.
- Nghiên cứu bổ sung các tội phạm liên quan như tội mua dâm, tội tổ chức mua bán dâm.
+ Đối với tội mua dâm: Điều 256 Bộ luật hình sự chỉ quy định tội mua dâm người chưa thành niên, theo đó, người nào mua dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp như phạm tội nhiều lần, mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% thì bị phạt tù từ ba năm đến tám năm. Trường hợp phạm tội nhiều lần đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Ngoài ra, người phạm tội còn bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến mười triệu đồng.
Điều 22 Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định người mua dâm người chưa thành viên hoặc biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Có thể thấy, chế tài xử lý hình sự chỉ được thực hiện đối với người mua dâm người chưa thành niên. Đối với trường hợp mua dâm không phải là người chưa thành niên thì chỉ bị xử lý hành chính (cảnh cáo và phạt tiền). Như vậy, chưa đủ sức răn đe để hạn chế tệ nạn mại dâm.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Thụy Điển, Na Uy, Pháp, Hàn Quốc…hành vi mua dâm bị phạt nặng để răn đe tối đa những người có ý định mua dâm. Ở những nước này, mua dâm là tội hình sự, có thể bị phạt hàng ngàn USD và đi tù nhiều tháng (ví dụ, Thụy Điển đã thông qua luật xử lý hình sự việc mua dâm và không xử phạt việc bán dâm. Mại dâm được coi là một khía cạnh bạo lực do đàn ông gây ra đối với phụ nữ và trẻ em. Những người mua dâm có thể đối mặt với hình thức xử phạt hoặc đi tù tối đa 6 tháng). So với những nước này, chế tài xử lý đối với người mua dâm của nước ta nhẹ hơn rất nhiều, chỉ bị phạt tiền, không bị giam giữ hoặc công khai danh tính. Mức xử lý như vậu không có sức răn đe, phòng ngừa. Thực tế này đòi hỏi cần phải bổ sung chế tài hình sự mới nghiêm khắc đối với người mua dâm để nâng cao tính răn đe.
+ Đối với tội tổ chức mua bán dâm: việc tổ chức hoạt động mại dâm hiện nay thường có kẻ đứng ra tổ chức, chỉ huy, điều hành mạng lưới hoạt động mại dâm, thông qua hoạt động mại dâm trá hình để kiếm lời; có kẻ chỉ huy, phân công, điều hành từng khâu, từng công đoạn trong hoạt động mại dâm và cũng có những người trực tiếp hực hiện các công việc cụ thể trong các công đoạn đó, như: chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm không thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi tiến hành việc mua bán dâm); tìm kiếm, dẫn dắt người mua dâm, người bán dâm; bảo kê, bảo vệ cho hoạt động mại dâm…
- Cần nghiên cứu bổ sung một số tình tiết tăng nặng định khung liên quan đến hoạt động mại dâm tại một điều luật quy định trực tiếp về phòng, chống mại dâm như các tình tiết lợi dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ để chứa chấp, môi giới hoặc tổ chức hoạt động mại dâm; mua bán dâm ở nơi công cộng; thực hiện môi giới mại dâm, chứa mại dâm đối với trẻ em ở độ tuổi dưới 13 để tăng khung hình phạt đối với những tội danh này và tăng tính răn đe phòng ngừa tội phạm.
Đối với một số điều luật quy định các tình tiết tăng nặng định khung là thực hiện nhằm mục đích mại dâm ngoài Điều 199, 120 cần nghiên cứu bổ sung quy định tại mốt số tội danh cụ thể như Điều 103 về tội đe dọa giết người, Điều 104 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Điều 110 về tội hành hạ người khác, Điều 121 về tội làm nhục người khác… tăng tính răn đe phòng ngừa tội phạm.
Báo cáo của Vụ Pháp luật hình sự- hành chính (Bộ Tư pháp)