4. Về việc quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB
So với Luật XLVPHC, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC đã sửa đổi quy định tại Điều 131 về việc quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB trong thời gian làm thủ tục theo hướng: (i) Đối với người có nơi cư trú ổn định, cơ quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định giao cho gia đình quản lý trong thời gian làm thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính (cơ bản giữ nguyên như quy định của Luật hiện hành); (ii) Đối với người không có nơi cư trú ổn định hoặc có nơi cư trú ổn định nhưng gia đình không đồng ý quản lý thì cơ quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định giao cho trung tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội hoặc CSCNBB của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý.
Quy định nêu trên nhằm tháo gỡ vướng mắc của Điều 131 Luật XLVPHC hiện hành về việc giao cho gia đình hoặc tổ chức xã hội quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB. Thực tế, quy định này không có tính khả thi, vì hầu hết các đối tượng vi phạm không có ý thức tuân thủ pháp luật, có thái độ bất hợp tác, thậm chí chống đối quyết liệt việc đưa vào CSCNBB nên gia đình và tổ chức xã hội rất khó quản lý.
Mặt khác, trên thực tế, các tổ chức xã hội không có đầy đủ các điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất để thực hiện công việc này. Chính vì vậy, suốt một thời gian dài, Điều 131 Luật XLVPHC hầu như không thể triển khai, thực hiện và theo đó, người vi phạm thuộc diện lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB mặc nhiên sinh sống tại địa bàn dân cư mà không có biện pháp quản lý hữu hiệu, hạn chế nguy cơ rủi ro đối với cộng đồng.
Tư vấn cho người nghiện tại Điểm tư vấn cộng đồng
5. Về áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ người theo thủ tục hành chính đối với trường hợp xác định tình trạng nghiện ma túy
Điểm a Khoản 1 Điều 103 Luật XLVPHC quy định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB phải có tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy. Để thi hành quy định này của Luật, Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan ban hành tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện ma túy; hướng dẫn trình tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện ma túy. Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành về trình tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện ma túy thì cơ quan, người có thẩm quyền phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước khác nhau mới có thể xác định được chính xác một người có nghiện ma túy hay không.
Mặt khác, những đối tượng này thường có thái độ thiếu hợp tác, thậm trí là bỏ trốn gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB. Trong khi đó, Luật XLVPHC hiện hành chưa có quy định về việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính để xác định tình trạng nghiện. Chính vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC bổ sung quy định về việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính để xác định tình trạng nghiện ma túy đối với người sử dụng trái phép chất ma túy (điểm đ khoản 1 Điều 122); đồng thời, bổ sung thời hạn tạm giữ đối với trường hợp này có thể kéo dài hơn các trường hợp khác nhưng không quá 05 ngày, kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm.
Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC bổ sung quy định về việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính đối với trường hợp để thi hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 124 Luật XLVPHC quy định về áp giải người vi phạm đối với trường hợp “Đưa vào hoặc đưa trở lại … cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 111, khoản 2 Điều 112 không tự giác chấp hành khi điều kiện tạm hoãn, tạm đình chỉ không còn và đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 132 của Luật này”.
6. Về xử lý đối tượng đang chấp hành quyết định tại CSCNBB mà thực hiện hành vi thuộc trường hợp áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB
Nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công việc, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC đã bỏ quy định về việc Trưởng Công an cấp huyện có trách nhiệm lấy ý kiến của Trưởng phòng Tư pháp về tính pháp lý của hồ sơ trước khi xem xét, gửi hồ sơ đề nghị Toà án nhân dân nơi có CSCNBB quyết định áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB đối với đối tượng đang chấp hành quyết định tại CSCNBB mà thực hiện hành vi thuộc trường hợp áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB.
Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC cũng bổ sung các quy định nhằm xử lý đối với trường hợp cá nhân có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (hành vi tiền đề dẫn đến nghiện ma túy). Cụ thể: bổ sung quy định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người sử dụng trái phép chất ma túy tại Điều 90 Luật XLVPHC (người từ đủ 14 tuổi trở lên đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy).
Quy định trên xuất phát từ thực tiễn hiện nay, người sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng phổ biến, trẻ hóa và có những hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội, thậm chí gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Đây là nhóm đối tượng cần phải được quan tâm đặc biệt, cần được quản lý, tư vấn tâm lý. Do vậy, việc quy định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người sử dụng trái phép chất ma túy tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật XLVPHC nhằm tăng cường quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, đồng thời, là biện pháp phòng ngừa sớm đối với đối tượng này là rất cần thiết.
Có thể thấy, so với Luật XLVPHC hiện hành, những quy định mới liên quan đến việc xử lý vi phạm hành chính đối với người nghiện ma túy quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC có thay đổi theo hướng tích cực, vừa đáp ứng yêu cầu bảo đảm hiệu quả trong quản lý nhà nước vừa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần nâng cao công tác phòng, ngừa, đấu tranh với các vi phạm hành chính, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội cũng như bảo đảm tốt hơn nữa quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam./.
Nguyên Trực (t/h)